Monday, December 30, 2024

Nguyễn Chương-Mt · CHỮ = TỰ (字) = WORD / "CHỮ" KHÔNG PHẢI LÀ "TỪ" (詞)

1/ "CHỮ", rất thuần Việt, sao không dùng mà cứ gọi là "từ"? Chẳng hạn, "bài diễn văn này có 500 CHỮ (words)", không dùng như rứa mà cứ gọi là "500 từ"; rồi "những từ này", ủa, sao không viết là "những CHỮ này"?... Nhiều lắm, vô số kể, nhiều người trong chúng ta giờ đây cũng bị nhiễm viết/gọi là "từ" thay vì "chữ"!
Quí bạn có bao giờ thắc mắc, lấy làm lạ, rằng: tiếng thuần Việt gọi là "CHỮ", hay quá sức, mà vì sao bị trục xuất dần dần từ sau năm 1975, đến nay gần như biến mất tiêu, bị bức tử?
2/ Mà dù có dùng âm Hán-Việt đi nữa thì cũng phải dùng cho đúng. "Từ" đâu hoàn toàn đồng nghĩa với "CHỮ" mà ham!
"CHỮ", nếu dùng âm Hán-Việt, là "tự" (字) - chẳng hạn, "Hán tự" (漢字) nghĩa là "chữ Hán", đâu ai ấm ớ đi gọi là ... "Hán từ"!
Còn "từ" (詞), nghĩa là gì? "Từ" nghĩa là lời nói, như "ngôn từ" (言詞); "từ" nghĩa là một đoạn văn, một bài viết, như "ca từ" (歌詞) là lời bài ca, như "diễn từ" (演詞) là cả một bài diễn văn...
Tức là, khi bạn viết như ri "bài diễn văn này có 500 từ", là ... SAI!; bởi vì cả một bài diễn văn đó gộp thành "TỪ", và trong bài diễn từ này có "500 TỰ" (nếu vẫn ưng dùng âm Hán-Việt), hay "500 CHỮ".
3/ Sao lại xảy ra tình trạng lẫn lộn, "râu ông đem cắm cằm bà" như rứa?
"Từ" còn mang tính chất của một đơn vị ngôn ngữ, chẳng hạn "danh từ" (名詞), "động từ" (動詞)...
Ví dụ: "đình" (庭) là danh từ, ở đây danh từ chỉ có 1 chữ (tự). Thấy gì? Danh từ "đình" có 1 chữ, thành thử khối người ba chớp ba nháng giải thích - đó, "từ" tức là "chữ".
Xem tiếp. "Gia đình" (家庭) là danh từ, ở đây danh từ gồm có 2 chữ (tự), ở đây "từ" nhiều hơn "chữ" rồi đa!
Tóm lại:
a) CHỮ là "tự" (字)
b) "Từ" (詞) là tập hợp của nhiều "tự", tức tập hợp nhiều CHỮ (ít nhứt là 1, và trở lên).
CHỮ, như vậy, không đồng nhứt với "từ".
c) Tốt nhứt, hay nhứt, là hãy cùng nhau trở lại với cách dùng thuần Việt, gọi là "CHỮ"!
Chẳng hạn, "đoạn văn kia có 300 CHỮ", "tôi xin viết ra đây mấy CHỮ...", "nhóm CHỮ sau đây..." (đừng viết "cụm từ", "nhóm từ", bởi vì xin nhắc lại, "từ" là đã bao hàm số nhiều rồi, là cả "nhóm", "cụm" rồi).
Các thế hệ ngày trước, khi có chữ Quốc ngữ, phân định rạch ròi: "chữ cái" (letter), "CHỮ" (word). "Chữ", "chữ cái" đều là quốc âm (Nam âm) của tiếng Việt!
"Chữ cái" (a,b,c...) là chữ cái (letter) Latin, nơi tiếng Anh, Pháp, Đức, rồi Việt Nam đều giống nhau, NHƯNG - xin chú ý - khi gọi là CHỮ (word) thì KHÁC nhau! Chữ Quốc ngữ (chữ của tiếng Việt): "người mẹ", Chữ Anh (chữ của tiếng Anh): "mother", Chữ Pháp: "mère", Chữ Đức: "Mutter".
------------------------------------------------------------

https://www.facebook.com/nguyenchuong158/

Thursday, December 26, 2024

THÁP CHÀM, NGƯỜI CHÀM - Nguyễn Chương-Mt

Nguyễn Chương-Mt
12h ·
Bài dưới đây để rộng đường tham khảo, sẵn sàng đón nhận ý kiến đa chiều trong tinh thần cầu tiến.

THÁP CHÀM, NGƯỜI CHÀM
* Cách gọi "Chăm", chú ý, chỉ mới xuất hiện "qui định" từ 1979 trở lại đây mà thôi; trong khi "CHÀM" đã là cách gọi của người Việt suốt VÀI TRĂM NĂM và người CHAM cũng chấp nhận cách gọi "CHÀM" từ người Việt, đã lâu rồi.
* Rất thú vị, hiện nay vẫn đang định vị với tên gọi "Thành phố Phan Rang - Tháp CHÀM" (không gọi "Chăm") thuộc tỉnh Ninh Thuận!
&1&
Có một số người cho rằng nói "CHÀM" là không phải phép, là miệt thị (?!). Nhà nghiên cứu Inrasara lên tiếng (trong bài "Chăm hay CHÀM đúng?"):
"Người viết bài này (Inrasara) năm 1994 vẫn có một tiểu luận đăng trên tạp chí Văn học: "Ca dao - dân ca, tiếng nói trữ tình của dân tộc CHÀM" hay có bài thơ có tên là "Apsara, vũ nữ CHÀM" (Tháp nắng, 1996). Tôi phân biệt đối xử với chính tôi à?".
Anh Inrasara phân tích, diễn giải. Theo đó:
- "CHÀM" là do người Việt phiên âm chữ CHAM (hay CAM). CHAM trong akhar thrah, chữ truyền thống Cham, viết không có dấu âm, đọc là "Cham".
Cả người Thái, người Lào hay Khmer cũng đọc là "Cham".
- Trước 1979, suốt miền Trung không có gọi "Chăm" mà chỉ có CHÀM, gọi Tháp Chàm, Cù lao Chàm, giếng Chàm...
- Trước 1975, người CHAM bản xứ khi dùng tiếng Việt vẫn dùng thuật ngữ "CHÀM" trong mọi lĩnh vực: như "Trung tâm văn hóa Chàm"; "Nội san Panrang, tiếng nói của cộng đồng sắc tộc Chàm - Ninh Thuận"; Tự điển Chàm - Việt - Pháp.v.v...
(hết trích)
&2&
Trong tiếng Anh, ghi: Cham.
Người Tàu phiên âm đọc /Zhàn/, ghi 佔 (chữ Hán này kéo theo âm Hán-Việt là "chiêm");
Trong tiếng Hindi: चाम, đọc là chaam (gần với phát âm "chàm");
Người Việt đọc "CHÀM", ghi bằng chữ Nôm 𪷞 (ký tự này KHÔNG có trong chữ Hán)!
Cách gọi "CHÀM" (ghi chữ Nôm 𪷞), do người Việt phiên âm khi tiếp xúc với tộc người bổn xứ nơi Đàng Trong, cách đây đã hơn 400 năm!
(có vài người thay vì "CHÀM", lại ghi "Chăm" bằng ký tự... 佔, ồ, đây là chữ Hán mà âm Hán-Việt đọc rõ rành là "chiêm")
&3&
"Giờ đây, nhân loại mới có thể nhận diện ít nhiều được lộ trình – vận mệnh của một dân tộc mạnh mẽ vào bậc nhất của Đông Nam Á xa xưa mà nay chỉ còn trong cổ sử và huyền thoại", trích từ bài "Theo dòng thơ về Champa" của Tuệ Lãng.
Mời đọc những dòng suy tưởng trích từ bài Tuệ Lãng:
"... Trước dòng lưu chuyển cuồn cuộn của đời sống hiện đại, người ta lại trở về trước những ngọn tháp, đứng bên cạnh những thiên thần, vũ nữ, cây lá và thú vật sống động trên đá để tắm mình trong một thế giới huyền thoại và để đắm mình trong suy tư…
… Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng CHÀM lở lói rỉ rên than
(trích tập thơ "Điêu tàn" của Chế Lan Viên)
... Có người nhìn thấy con bò đá canh giữ vòm trời tinh tú cứ " trầm tư như một nhà hiền triết"; điệu luân vũ của những apsara vẫn tràn đầy gợi cảm và sắc màu hoan lạc,…
Em vào trong đá
Nụ cười bí mật
Từ đá em ra vồng ngực
Tôi không dám lên đền
Sợ nhìn đổ nát vòm thiêng
(nhà thơ Hoàng Hưng – bài "Trưa CHÀM")
(hết trích)
THAY LỜI KẾT
Khi quí bạn đến miền duyên hải ngoài Trung, từ hàng trăm năm đã có những câu ca dao của người Việt, như:
"Ai về Tuy Phước ăn nem
Ghé qua Hưng Thạnh mà xem tháp CHÀM"
"Ngó lên trên đỉnh tháp CHÀM
Nhớ ai như nhớ bóng nàng năm xưa"
Đó, hiện nay, có thành phố mang tên "Phan Rang - Tháp CHÀM" (không gọi tháp "Chăm").
Bởi vì, theo Inrasara, "CHÀM còn nguyên bản, còn truyền thống hơn, nên chính xác hơn "Chăm"./.
------------------------------------------------------------
Hình ảnh Đền tháp, theo tiếng Chàm (Cham), PO KLAUNG YĂGRAI 1151-1205 (bây giờ thấy ghi Po Klong Garai). Một nguồn khác cho rằng PO KLAUNG YĂGRAI và Jaya Indravarman IV ( जय इन्द्रवर्मन् ) có thể là cùng một người.
"Jaya"(जय) thuộc về Tước (nghĩa của Jaya là "Chiến thắng"); "- varman" (वर्मा, nghĩa "Tấm khiên") thuộc về Hiệu, dành cho những người đứng đầu Champa.
"Indra" là tên một vị thần chiến binh, trong Ấn Độ giáo Rigveda.

https://www.facebook.com/story.php?story_fbid=2064620860638550&id=100012719672028

Monday, December 23, 2024

BA CÁI THIẾU KINH NIÊN CỦA NGƯỜI GIÀ - Bs Đỗ Hồng Ngọc

Già thì khổ, ai cũng biết. Sanh lão bệnh tử! Nhưng già vẫn có thể sướng. Muốn sống lâu thì phải già chớ sao! Già có cái đẹp của già. Trái chín cây bao giờ cũng ngon hơn trái giú ép. Cái sướng đầu tiên của già là biết mình… già, thấy mình già, như trái chín cây thấy mình đang chín trên cây.

Nhiều người chối từ già, chối từ cái sự thật đó và tìm cách giấu cái già đi, như trái chín cây ửng đỏ, mềm mại, thơm tho mà ráng căng cứng, xanh lè thì coi hổng được. Mỗi ngày nhìn vào gương, người già có thể phát hiện những vẻ đẹp bất ngờ như những nếp nhăn mới xòe trên khóe mắt, bên vành môi, những món tóc lén lút bạc chỗ này chỗ nọ, cứng đơ, xơ xác… mà không ngờ nhanh vậy!

Thực tế con người ta có cái khuynh hướng dễ thấy khổ hơn. Khổ dễ nhận ra còn sướng thì khó biết! Một người luôn thấy mình sướng thì không khéo người ta nghi ngờ là có vấn đề về tâm thần!

Nói chung, người già có ba nỗi khổ thường gặp nhất, nếu giải quyết đựơc sẽ giúp họ sống "trăm năm hạnh phúc":

MỘT LÀ THIẾU BẠN

Nhìn qua nhìn lại, bạn cũ rơi rụng dần… Thiếu bạn, dễ hụt hẫng, cô đơn và dĩ nhiên… cô độc. Từ đó dễ thấy mình bị bỏ rơi, thấy không ai hiểu mình!.

Người già chỉ sảng khoái khi được rôm rả với ai đó, nhất là những ai "cùng một lứa bên trời lận đận"… Gặp đựơc bạn tâm giao thì quả là một liều thuốc bổ mà không bác sĩ nào có thể biên toa cho họ mua được!

Để giải quyết chuyện này, ở một số nước tiên tiến, người ta mở các phòng tư vấn, giới thiệu cho những người già cùng sở thích, cùng tánh khí, có dịp làm quen với nhau. Người già tự giới thiệu mình và nêu "tiêu chuẩn" người bạn mình muốn làm quen.

Rồi họ dạy người già học vi tính để có thể "chat", "meo" với nhau chia sẻ tâm tình, giải tỏa stress… Thỉnh thỏang tổ chức cho các cụ họp mặt đâu đó để được trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, dòm ngó, khen ngợi hoặc… chê bai lẫn nhau. Khen ngợi chê bai gì đều có lợi cho sức khỏe! Có dịp tương tác, có dịp cãi nhau là sướng rồi. Các tế bào não sẽ đựơc kích thích, đựơc hoạt hóa, sẽ tiết ra nhiều kích thích tố. Tuyến thượng thận sẽ hăng lên, làm việc năng nổ, tạo ra cortisol và epinephrine làm cho máu huyết lưu thông, hơi thở trở nên sảng khóai, rồi tuyến sinh dục tạo ra DHEA (dehydroepiandoster one), một kích thích tố làm cho người ta trẻ lại, trẻ không ngờ!…

Dĩ nhiên phải chọn một nơi có không khí trong lành. Hoa cỏ thiên nhiên. Thức ăn theo yêu cầu. Gợi nhớ những kỷ niệm xưa… Rồi dạy các cụ vẽ tranh, làm thơ, nắn tượng… Tổ chức triển lãm cho các cụ. Rồi trình diễn văn nghệ cây nhà lá vườn. Các cụ dư sức viết kịch bản và đạo diễn. Coi văn nghệ không sướng bằng làm văn nghệ!

* CÁI THIẾU THỨ HAI LÀ THIẾU ĂN!

Thực vậy. Ăn không phải là tọng là nuốt là xực là ngấu nghiến… cho nhiều thức ăn! Ăn không phải là nhồi nhét cho đầy bao tử! Trong cuộc sống hằng ngày có nhiều thứ nuốt không trôi lắm! Chẳng hạn ăn trong nỗi sợ hãi, lo âu, bực tức; ăn trong nỗi chờ đợi, giận hờn thì nuốt sao trôi? Nuốt là một phản xạ đặc biệt của thực quản dưới sự điều khiển của hệ thần kinh. Một người trồng chuối ngược vẫn có thể nuốt được dễ dàng! Nhưng khi buồn lo thì phản xạ nuốt bị cắt đứt!

Nhưng các cụ thiếu ăn, thiếu năng lựơng phần lớn là do sợ bệnh, kiêng khem quá đáng. Bác sĩ lại hay hù, làm cho họ sợ thêm! Nói chung, chuyện ăn uống nên nghe theo mệnh lệnh của… bao tử.

"Listen to your body". Hãy lắng nghe sự mách bảo của cơ thể mình! Cơ thể nói… thèm ăn cái gì thì nó đang cần cái đó, thiếu cái đó! Nhưng nhớ ăn là chuyện của văn hóa! Chuyện của ngàn năm, đâu phải một ngày một buổi. Món ăn gắn với kỷ niệm, gắn với thói quen, gắn với mùi vị từ thuở còn thơ! Người già có thể thích những món ăn… kỳ cục, không sao. Đừng ép! Miễn đủ bốn nhóm: bột, đạm, dầu, rau… Mắm nêm, mắm ruốc, mắm sặc, mắm bồ hóc, tương chao… đều tốt cả. Miễn đừng quá mặn, quá ngọt…là đựơc. Cách ăn cũng vậy. Hãy để các cụ tự do tự tại đến mức có thể đựơc. Đừng ép ăn, đừng đút ăn, đừng làm "hư" các cụ!

Cũng cần có sự hào hứng, sảng khoái, vui vẻ trong bữa ăn.. Con cháu hiếu thảo phải biết… giành ăn với các cụ. Men tiêu hoá được tiết ra từ tâm hồn chớ không chỉ từ bao tử.

* CÁI THIẾU THỨ BA LÀ THIẾU VẬN ĐỘNG!

Già thì hai chân trở nên nặng nề, như mọc dài ra, biểu không chịu nghe lời ta nữa! Các khớp cứng lại, sưng lên, xương thì mỏng ra, dòn tan, dễ vỡ, dễ gãy!

Bác sĩ thường khuyên vận động mà không hướng dẫn kỹ dễ làm các cụ ráng quá sức chịu đựng, lâm bệnh thêm. Phải làm sao cho nhẹ nhàng mà hiệu quả, phù hợp với tuổi tác, với sức khỏe. Phải từ từ và đều đều. Ngày xưa người ta săn bắn, hái lượm, đánh cá, làm ruộng, làm rẫy… lao động suốt ngày. Bây giờ chỉ ngồi quanh quẩn trong bốn bức tường trước TV!. Có một nguyên tắc "Use it or lose it!" Cái gì không xài thì teo! Thời đại bây giờ người ta xài cái đầu nhiều quá, nên "đầu thì to mà đít thì teo". Thật đáng tiếc!

Không cần đi đâu xa. Có thể tập trong nhà. Nếu nhà có cầu thang thì đi cầu thang ngày mươi bận rất tốt. Đi vòng vòng trong phòng cũng được. Đừng có ráng lập "thành tích" làm gì! Tập cho mình thôi.. Từ từ và đều đều… Đến lúc nào thấy ghiền, bỏ tập một buổi… chịu hổng nổi là được!

Nguyên tắc chung là kết hợp hơi thở với vận động. Chậm rãi, nhịp nhàng. Lạy Phật cũng phải đúng… kỹ thuật để khỏi đau lưng, vẹo cột sống. Đúng kỹ thuật là giữ tư thế và kết hợp với hơi thở. Đó cũng chính là thiền, là yoga, dưỡng sinh…! Vận động thể lực đúng cách thì già sẽ chậm lại. Giảm trầm cảm, buồn lo. Phấn chấn, tự tin. Dễ ăn, dễ ngủ…

Tóm lại, giải quyết được "ba cái lăng nhăng" đó thì có thể già mà… sướng!

ĐỖ HỒNG NGỌC

--
I trust in the mercy of God for ever. (Psalms 52:10)